Những khó khăn trong việc áp dụng biểu thuế, suất tài nguyên

Thứ ba - 13/12/2016 16:00 329 0

Ngày 10 tháng 12 năm 2015 Ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1084/2015/UBTVQH13 về việc ban hành biểu mức thuế suất thuế tài nguyên. Trong đó, Nghị quyết thông qua 2 biểu mức thuế suất: Biểu mức thuế suất đối với các loại tài nguyên, trừ dầu thô và khí thiên nhiên, khí than; Biểu mức thuế suất đối với dầu thô và khí tự nhiên, khí than.

Đối với biểu mức thuế đối với dầu thô và khí tự nhiên, khí than thì sản lượng khai thác dầu thô trên 150.000 thùng/ngày chiếm 23-29% thuế suất. Ngoài ra, sản lượng khai thác khí thiên nhiên và khí than trên 10 triệu m3/ngày chiếm 6-10% mức thuế suất.

Đối với biểu mức thuế suất các loại tài nguyên bao gồm 8 nhóm: khoáng sản kim loại, khoán sản không kim loại, sản phẩm của rừng tự nhiên, hải sản tự nhiên, nước thiên nhiên, yến sào thiên nhiên và tài nguyên khác. Có thể thấy, đáng chú ý là nhóm tài nguyên nước thiên nhiên với mức thuế suất sử dụng nước mặt là 1% và sử dụng nước dưới đất là 5% trên mức giá được ban hành bởi cơ quan có thẩm quyền. Chính sách thuế này rất phù hợp nhằm hạn chế khai thác sử dụng nước dưới đất, tăng cường sử dụng nước mặt bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, đối với người dân nông thôn vùng khó khăn và nguồn nước vẫn còn khan hiếm thì với mức thuế này sẽ càng khó khăn hơn đối với họ.

Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh ban hành Quyết định số 54/2015/QĐ-UBND ngày 03/11/2015 về bảng giá tính thuế tài nguyên áp dụng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Trong đó, nước ngầm (giếng khoan dưới lòng đất) có giá tính thuế là 8000 đồng/m3 nước. Khi đó, mức giá nước sinh hoạt các hộ dân tại khu vực nông thôn là 4000 đồng/m3 (đã bao gồm thuế) theo quyết định số 30/QĐ-UBND của ủy ban nhân dân tỉnh. Như vậy, ta thấy mức thuế mà người dân phải đóng với mức giá 4000 đồng/m3 nước là 200 đồng/m3. Chi phí này sẽ là khá cao đôi với những vùng nông thôn còn khó khăn về mặt kinh tế.

Hiện nay, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (Trung tâm Nước sạch) quản lý 68 công trình với công suất thiết kế 9.020 m3/ngày đêm, cấp nước cho trên 15.000 hộ dân nông thôn trên địa bàn tỉnh. Ước tính trung bình mỗi tháng Trung tâm Nước sạch sản xuất 179.046m3 nước và danh thu trung bình của Trung tâm Nước sạch là 716.184.000 đồng/tháng. Mặt khác, các công trình cấp nước của Trung tâm Nước sạch chủ yếu là sử dụng nước ngầm, do đó mức thuế suất phải đóng là 5% vì vậy hằng tháng mức thuế suất phải chịu là 35.809.200 đồng/tháng. Ngoài ra, Trung tâm Nước sạch chỉ cung cấp nước chủ yếu cho các hộ nghèo, hộ thiếu nước sạch vùng nông thôn nên mức thuế này so với mức thuế suất đối với việc sử dụng nước mặt cấp cho đô thị là khá cao. Như vậy, ta có thể thấy mức thuế 5% đã ảnh hưởng một phần về mặt kinh tế đến việc cấp nước cho người dân nông thôn bởi lẽ nguồn thu nhập của họ thấp hơn so với mặt bằng chung của dân cư đô thị nhưng lại chịu mức thuế suất cao hơn. Chính vì vậy mức thuế suất đối với loại tài nguyên nước thiên nhiên đặc biệt là sử dụng nước dưới đất cần được xem xét lại để có hướng khắc phục hợp lý hơn, giải quyết những khó khăn, lo lắng của người dân cũng như đơn vị thực hiện cấp nước./.

         

                        Trung tâm Nước sạch và VSMTNT      

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây