Nông nghiệp hữu trên cơ thế giới được khởi sướng từ năm 1920 -1940 của nhiều tác giả Sir Albert Howerd và bà Eva Balfour đã xuất bản cuốn sách đầu tiên về ý tưởng Nông nghiệp hữu cơ và chính họ là người tiên phong đi đầu trong phong trào sinh học và nông nghiệp hữu cơ (NNHC) về độ phì của đất và phối quan hệ sinh học với sức khỏe của con người và động vật. Các mô hình sản xuất NNHC ở Châu Âu, châu Mỹ và châu Úc. Năm 1970 các SP hữu cơ được ra đời và phát triển việc chứng nhận cho người sản xuất thúc đẩy sự gắn bó giữa người sản xuất và tiêu dùng. Đến nay có 27 nước đã xây dựng xong tiêu chuẩn quốc gia, nhiều nước đã thành lập cơ quan giám sát và cấp giấy chứng nhận SP hữu cơ như Trung Quốc, Ấn độ, Nhật bản, Hàn quốc….Như vậy NNHC trên thế giới là vấn đề rất quan trọng là cơ hội tạo ra thị trường và xây dựng thương hiệu cho các nước phát triển trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam với truyền thống hơn 4.000 năm lịch sử, nền nông nghiệp Việt Nam vốn phát triển tự nhiên. Đến năm 1954 người Pháp đưa máy móc và phân hóa học, thuốc BVTV vào trồng trọt, 50% lượng phân hóa học được cây trồng sử dụng còn 50% bay đi hơi, tửa trôi, thuốc BVTV dư thừa tồn tại trong đất, nước gây ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, sử dụng không hợp lý dẫn đến kháng thuốc của sâu, bệnh hại, tàn dư thuốc BVTV trong sản phẩm đều có ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe con người, vật nuôi và môi trường sống.
Như vậy từ rau an toàn đến rau sạch rồi đến sản phẩm NNHC đây là xu hướng chung của thời đại. Mục tiêu của sản xuất NNHC hiện nay ở VN là: Sản phẩm có trị dinh dưỡng cao; Tăng cường chu kỳ sinh học trong hệ thống trang trai; Duy trì tăng cường độ màu mở của đất; Tăng cường hệ thống khép kín có thể; trách gây ô nhiễm môi trường, duy trì bảo vệ môi trường trong canh tác nông nghiệp: Giảm thiểu nguồn nguyên liệu không có khả năng phục hồi.
Ở Việt Nam Bộ NN và PTNT đã ban hành NNHC số 10TCN602-2006 tháng 12/2006 nhưng chưa hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên có một số tấm gương điển hình tiên phong sản xuất gạo thơm Hoa Sữa hữu cơ (HC), rau HC, cá đồng tự nhiên HC của CT CP thương mại Viễn Phú, tỉnh Cà Mau được tổ chức Hà Lan giám định cấp chứng nhận. Mô hình rau HC Bá Hùng Ở Đà Lạt. Mô hinh trồng cam sành HC ở Hàm yên, Tuyên quang và các mô hình HC như: Tôm, cá basa, chè, hạt điều, dứa, gia vị. tinh dầu xã, chuối rau quả,…đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và xuât khẩu nhất là các thị trường khó tính.
Theo báo cáo của chuyên gia từ "Hội thảo ra mắt Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ phía nam". Kỹ thuật canh tác hữu cơ không có nghĩa đơn thuần là thay thế đầu vào vô cơ bằng hữu cơ sẽ tạo ra sản phẩm là hữu cơ. Nguyên tắc bao trùm trong canh tác HC là đảm bảo cây trồng được sống và phát triển tự nhiên, được tôn trọng, được sống trong môi trường sinh thái công bằng. Sản xuất NNHC cần chú trọng những điểm như sau:
Đa dạng sinh học, các sinh vật phải sống cùng với nhau trên cùng một đồng ruộng, thực vật, động vật và các sinh vật đất khác nhau trong hệ thông canh tác giúp duy trì độ phì của đất. Vùng đệm: Vùng sản xuất HC phải được bảo vệ không bị nhiễm hóa chất; Vùng sản xuất không thể sản xuất 2 dạng cây trồng HC và không HC; Giống sử dụng là giống địa phương, nếu mua hạt giống phải xử lý nước ấm để loại hóa chất ra khỏi hạt giống, không sử dụng hạt giống biến đổi GEN (GMO); Phân ủ và đầu vào HC " Đất là linh hồn của NNHC" đất khỏe sẽ tạo ra cây khỏe, các sản phẩm phân bón bán trên thị trường có tên gọi là HC hay sinh học đều không được sử dụng vì có thể chứa hóa chất. Cách ủ phân phải được kỹ thuật viên dự án ADDA hướng dẫn tùy theo loại rau màu mà cách ủ, thời gian ủ khác nhau; Che phủ và luân, xen canh. Sử dụng thân, lá để che phủ; Quản lý sâu bịnh, chọn cây khỏe chống chịu với sâu bịnh, luân canh, dùng thuốc trừ sâu sinh học bắt sâu bằng tay; Sơ chế cung cấp NNHC theo hợp đồng.
Trong thời gian có một doanh nghiệp, công ty đến Tây Ninh muốn đầu tư trồng chuối, rau sạch, lúa gạo và có hợp đồng thu mua. Nếu suất suất theo nông nghiệp hữu cơ giá thu mua cao hơn sản phẩm bình thường.
Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về chứng nhận nông nghiệp hữu cơ. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều hệ thống chứng nhận hữu cơ khác nhau. Trong các hệ thống chứng nhận đó, có những hệ thống nhà sản xuất phải bỏ ra một chi phí rất lớn dành cho việc đánh giá chứng nhận. Tuy nhiên, bên cạnh các hệ thống khi được chứng nhận nhà sản xuất phải trả chi phí còn có những hệ thống chứng nhận miễn phí với mục tiêu chung là vì sức khỏe cộng đồng. Hệ thống Phát triển và chứng nhận hữu cơ Việt Nam (Viet Nam Organic Food Certificate- VOFcert) của Trung tâm phát triển và chứng nhận hữu cơ Việt Nam (Organic Development and Certification Center of Viet Nam - ODCCVN) là một trong những hệ thống chứng nhận miễn phí cho các nhà sản xuất. Các nhà sản xuất tự nguyện tham gia, tự nguyện thực hiện theo quy trình kỹ thuật tự nguyện chịu sự đánh giá, tự nguyện chịu sự giám sát sẽ được cấp chứng nhận VOF Certificate. Tùy mức độ đạt được mà nhà sản xuất được cấp chứng nhận an toàn hay hữu cơ. Hệ thống này áp dụng tiến bộ khoa học để xây dựng và triển khai quy trình kỹ thuật tiên tiến đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn sạch hoặc/và tiêu chuẩn hữu cơ. Hệ thống làm việc dựa trên hội đồng cố vấn, cán bộ kỹ thuật, các tình nguyện viên tham gia vào chuỗi phát triển, đánh giá, giám sát, chứng nhận liên tục.
VOF có mục tiêu chung với các cơ quan chứng nhận từ bên ngoài đó là cung cấp hệ thống giám sát, chứng nhận đảm bảo tin cậy cho người tiêu dùng đang tìm kiếm sản phẩm sạch, sản phẩm hữu cơ đích thực. Hệ thống VOF Certificate yêu cầu sự tự nguyện của các bên tham gia. Người tiêu dùng hoàn toàn có thể tự nguyện tham gia giám sát, đánh giá các nhà sản xuất bên cạnh các tình nguyện viên. Sự tham gia trực tiếp của các tình nguyện viên giúp các chương trình của VOF giảm bớt được các công việc giấy tờ và ghi chép hồ sơ, điều mà những nông dân sản xuất nhỏ khó có thể làm được thường xuyên. (thông tin từ trang Web:chungnhanhuuco.net)
Tuy nhiên sản xuất NNHC mất rất nhiều công sức khó thực hiện trên diện rộng; Những vùng đất bạc màu cây phát triển còi cọc, nhiều sâu bệnh; Tác dụng phân HC và chế phẩm sinh học có tác dụng chậm, cây trồng sử dụng HC năng suất thấp, sản phẩm chưa đẹp mắt, Đời sống, dân trí còn thấp, việc sản xuất nhiều bất cập
Những hạn chế cuộc CM Xanh và công nghiêp hóa nông nghiệp đã dẫn đến nhiều nước phải quay lại với sản xuất NNHC. Trong đó có Việt Nam việc làm này đã đưa nông nghiệp HC ngày càng được nâng cao có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của xã hội trực tiếp là người tiêu dùng và yêu cầu nội địa./.
Ý kiến bạn đọc